Sunday, June 26, 2011

Kỹ thuật nuôi bò sinh sản và bê lai


Bò là gia súc đang được phát triển nhiều trên địa bàn cả nước, trong đó có các tỉnh Đồng bằng sông Hồng. Sau đây là kỹ thuật nuôi bò sinh sản và nuôi bê lai.

I. Chọn bò cái sinh sản:
I.1. Ngoại hình:
- Dáng nhanh nhẹn, da mỏng, lông thưa, thuần tính, hiền lành, có sự hài hoà giữa các phần đầu và cổ, thân và vai.
- Đầu nhanh nhẹn, mõm rộng, mũi to, hàm răng đều đặn, trắng bóng; cổ dài vừa phải và thanh, da cổ có nhiều nếp nhăn.
- Ngực sâu, rộng: Xương sườn mở rộng, cong về phía sau, bụng to nhưng không sệ, bốn chân thẳng và mảnh, móng khít, mông nở, lưng ít dốc.
- Bầu vú phát triển về phía sau, 4 núm vú đều, dài vừa phải, không có vụ kẹ, da vú mỏng, đàn hồi, tĩnh mạch vú nổi rõ, phân nhánh ngoằn nghèo.
I.2. Chọn bò cái sinh sản: Bò có khả năng đẻ sớm và khoảng cách giữa 2 lứa đẻ ngắn.
- Bò động dục lần đầu khoảng 18-21 tháng tuổi, từ 27-30 tháng tuổi có thể đẻ lứa đầu.
- Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ ngắn: Từ 12-14 tháng đẻ 1 con bê.
II. Phối giống bò:
II.1. Phát hiện động dục và phối giống:
Muốn bò cái khi phối giống đạt tỷ lệ thụ tinh cao, phát hiện kịp thời bò cái động dục. Bò cái động dục có biểu hiện: bò kêu rống, đi lại bồn chồn, phá chuồng, kém ăn hoặc bỏ ăn, hưng phấn cao độ thích nhảy lên lưng con khác sau đó đứng yên để con khác nhảy lên, âm hộ hơi mở, có màu đỏ hồng, niêm dịch từ âm hộ chảy ra như nhựa chuối.
II.2. Phối giống cho bò: Có 2 phương pháp
- Thụ tinh nhân tạo: Dùng tinh cọng rạ đông lạnh và dụng cụ để dẫn tinh viên phối giống nhân tạo vào bò cái. Bê lai đẻ ra do thụ tinh nhân tạo sẽ đẹp và to hơn so với dùng bò đực cho phối giống trực tiếp.
- Dùng bò đực các giống Zêbu thuần hoặc lai cho nhảy trực tiếp: ở những vùng sâu, xa chưa có điều kiện phối giống nhân tạo. Tiến hành cho bò đực phối trực tiếp. Tốt nhất là bò đực giống lai F2 có ¾ máu của 1 trong các giống bò Red Sindhi, Sahiwal, Brâhmam.
III. Chăm sóc nuôi dưỡng bò đẻ và bê:
III.1. Chăm sóc bò chửa:
Bò cái đẻ cần được ăn uống đầy đủ, mỗi ngày 30-35 kg cỏ tươi, 2kg rơm ủ, 1kg thức ăn tinh (ngô, cám…), 2,5-30gr muối, 30-40gr bột xương. Không bắt bò làm việc nặng như: cày, bừa, kéo xe…Tránh xua đuổi mạnh với bò đang có chửa tháng thứ 3, tháng thứ 7, thứ 8 và thứ 9
III.2. Đỡ đẻ cho bò:
Thời gian mang thai trung bình của bò là 281 ngày.
- Triệu chứng bò sắp đẻ: Bò có hiện tượng sụt mông, bầu vú căng, đầu vú chĩa về hai bên, niêm dịch treo lòng thòng ở mép âm môn, đau bụng, đứng lên nằm xuống, chân cào đất, ỉa đái nhiều lần, khi bắt đầu đẻ bọc ối thò ra ngoài trước
- Đỡ đẻ cho bò: Trong trường hợp bò đẻ bình thường (thai thuận) không cần can thiệp hoặc chỉ cần hỗ trợ cho bò cái dùng tay kéo nhẹ ra cắt dây rốn dài khoảng 10-12cm (không cần buộc dây rốn), sát trùng bằng cồn i - ốt 5%. Lau rớt dãi trong mũi, mồm bê, để bò mẹ tự liếm con. Bóc móng để bê con đỡ trơn trượt khi mới tập đi. Vệ sinh phần thân sau và bầu vú bò mẹ, cho bò mẹ uống thêm ít muối, cám và nước ấm. Trường hợp đẻ khó phải gọi cán bộ thú y can thiệp kịp thời.
III.3. Chăm sóc, nuôi dưỡng bò đẻ và bê con:
III.3.1. Đối với bò mẹ:
- 15-20 ngày đầu sau khi đẻ cho bò mẹ ăn cháo (1,0-1,5kg thức ăn tinh/con/ngày) và 25-30gr muối ăn, 30-40gr bột xương, có đủ cỏ non xanh ăn tại chuồng.
- Những ngày sau, trong suốt thời gian nuôi con, một ngày cho bò mẹ ăn 30 kg cỏ tươi, 2-3kg rơm ủ, 1-2 kg cám hoặc thức ăn hỗn hợp để bò mẹ phục hồi sức khoẻ, nhanh động dục lại để phối giống.
III.3.2. Đối với bê:
- Từ khi sinh ra đến 30 ngày tuổi bê được nuôi ở nhà, cạnh bò mẹ. Luôn giữ ấm cho bê, tránh gió lùa, chỗ bê nằm khô sạch.
- Trên một tháng tuổi, chăn thả theo bò mẹ ở bãi gần chuồng, tập cho bê ăn thức ăn tinh.
- Từ 3-6 tháng tuổi: Cho 5-10kg cỏ tươi và 0,2kg thức ăn tinh hỗn hợp. Tập cho bê ăn cỏ khô. Nên cai sữa bê vào khoảng 6 tháng tuổi.
- Từ 6-24 tháng tuổi chăn thả là chính, mỗi ngày cho ăn thêm 10-20 kg cỏ tươi, ngọn mía, cây cỏ non. Mùa thiếu cỏ có thể cho ăn thêm 2-4kg cỏ khô một ngày.
IV. Kỹ thuật ủ rơm với urê:
Đặc điểm bộ tiêu hoá của trâu, bò, dê có thể chuyển hoá đạm vô cơ của urê thành nguồn đạm cho cơ thể, vì vậy nên áp dụng phương pháp ủ rơm với urê để bổ sung đạm cho bò.
- Cho urê, muối, vôi bột hoà tan trong nước rồi dùng bình tưới đều nên rơm khô theo từng lớp sau đó ủ rơm trong bao nilông hoặc bể gạch đậy kín. Sau 7 ngày lấy dần cho bò ăn. Tỷ lệ urê 4kg cho 100kg rơm khô.
V. Phòng và trị bệnh ký sinh trùng cho bò, bê:
V.1. Ký sinh trùng ngoài da (ve, ruồi, muỗi, ghẻ…)
- Dùng 1,25g Neguvôn + 0,03 lít dầu ăn + 0,5 thìa xà phòng bột cho vào 1 lít nước rồi lắc cho thuốc tan đều. Lấy giẻ sạch tẩm dung dịch thuốc đã pha sát lên toàn thân trâu bò.
V.2. Giun sán:
- Thuốc Lêvavét để tẩy giun tròn. Cứ 1 gói 5gr dùng cho 13-20kg trọng lượng hơi của bò, bê.
- Thuốc viên Fasinex 900 để tẩy sán lá gan, 1 viên cho 80-100kg trọng lượng hơi của bò, bê, nhét trực tiếp vào miệng cho bò nuốt.

Thursday, June 23, 2011

kỹ thuật nuôi heo nái, heo con và heo thịt

A. KỸ THUẬT NUÔI HEO NÁI VÀ HEO CON    
I. CHUỒNG TRẠI   
1. Chọn địa điểm cao ráo sạch sẽ, thoáng mát, có rèm che lúc mưa gió. Nên xây dựng chiều dài chuồng theo hướng Đông - Tây để tránh bức xạ mặt trời.  

2. Nền chuồng làm bằng xi măng, có độ dốc khoảng 2 %, không tô láng (để tránh hiện tượng heo bị trượt). Diện tích chuồng nái nuôi con khoảng 5-6 m2/con, có ô úm cho heo con từ 0,8 - 1 m2/ô. Có máng ăn, núm uống tự động riêng biệt đúng kích cỡ. Ngoài chuồng có rãnh thoát phân và hố phân cách xa chuồng.  
3. Có điều kiện nên nuôi heo nái bằng lồng sắt, dùng núm uống tự động (tham khảo kiểu chuồng ở các trại chăn nuôi tiên tiến). 
4. Mẫu chuồng lồng nuôi heo nái và heo con
II- CHỌN HEO GIỐNG   
1. Nên chọn heo giống Yorkshire hoặc lai giữa Yorkshire với heo Landrace. Không nên chọn heo lai 3-4 máu để làm nái hậu bị.  
2. Chọn ở các giai đoạn khác nhau, đặc biệt chọn giai đoạn heo 7-8 tháng tuổi đạt trọng lượng 90-100 kg để phối giống.  
3. Chọn những con dài thân, mông vai nở, háng rộng, bốn chân thẳng, chắc chắn, có bộ móng tốt, âm hộ (hoa) phát triển tốt, núm vú nổi rõ, hai hàng vú thẳng phân bố đều, khoảng cách hai hàng vú gần nhau là tốt. Heo nái có ít nhất 12 vú trở lên. Chú ý nên chọn những con có tính tình hiền lành.  
4. Có thể chọn mua heo giống ở các trại chăn nuôi, hoặc chọn heo con từ những con nái tốt của hàng xóm.  
5. Đối với heo thịt nên chọn nuôi heo lai 3 máu để phát huy ưu thế lai (heo mau lớn, khả năng chống bệnh cao, tỷ lệ nạc nhiều…).   
III. HEO LÊN GIỐNG VÀ PHỐI GIỐNG  
1. Phối giống cho heo vào thời gian 7-8 tháng tuổi đạt trọng lượng từ 90-120 kg.  
2. Heo lên giống ăn ít hoặc bỏ ăn, cắn phá chuồng, kêu réo liên tục, nhảy lên lưng của heo khác, âm hộ sưng đỏ, có thể có nước nhầy chảy ra.  
3. Thời gian heo lên giống từ 3-5 ngày, phối giống vào cuối ngày thứ hai hoặc sang ngày thứ ba là tốt. Phối vào lúc heo chịu đực. Biểu hiện heo chịu đực: heo đứng im cho con khác nhảy lên lưng nó, hoặc người dùng hai tay ấn mạnh lên lưng heo vẫn đứng im, dịch nhờn âm hộ keo đặc lại. 
4. Có thể phối giống bằng heo đực nhảy trực tiếp hoặc bơm tinh nhân tạo, nên phối kép (phối hai lần), lần phối thứ hai cách lần phối thứ nhất từ 6-8 giờ. 
5. Không nên dùng heo đực có trọng lượng quá lớn nhảy với heo nái mới phối lần đầu. Chuồng cho heo phối phải sạch sẽ, nên rải rơm hoặc cỏ khô xuống dưới nền chuồng là tốt nhất.  
IV. CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG HEO NÁI MANG THAI 
1. Sau thời gian phối từ 18-21 ngày nếu heo không đòi đực lại thì coi như heo đã có chửa. Thời gian heo chửa 114 ngày (3 tháng + 3 tuần + 3 ngày) ± 3 ngày. 
2. Giai đoạn 1-90 ngày tùy tầm vóc của heo nái mập, gầy mà cho ăn lượng thực phẩm hợp lý 2-2,5 kg/ con/ngày. Từ 91 ngày trở đi cho heo ăn tăng lên từ 2,5-3,0 kg/con/ngày. Trước khi sinh 3 ngày phải giảm thức ăn xuống từ 3 kg - 2 kg - 1 kg/ngày. Ngày heo đẻ có thể không cho ăn để tránh sốt sữa. 
3. Trong thời gian chửa 2 tháng đầu không nên di chuyển heo nhiều, tránh gây sợ sệt heo sẽ bị tiêu thai. Trong thời gian chửa nên cho heo ăn thêm rau xanh, cỏ xanh. 
4. Cung cấp nước sạch cho heo uống theo nhu cầu.  
V. CHĂM SÓC HEO NÁI ĐẺ VÀ HEO CON THEO MẸ  
1. Trước ngày heo đẻ 2-3 ngày, vệ sinh chuồng trại, tắm chải heo mẹ sạch sẽ, diệt ký sinh trùng ngoài da.  
2.  Heo nái sắp đẻ biểu hiện: Ỉa đái vặt, bầu vú căng mọng, bóp đầu vú sữa vọt ra, khi thấy nước ối và phân xu, heo nái rặn từng cơn là heo con sắp ra. 
3. Heo con đẻ ra dùng giẻ sạch lau nhớt ở miệng, mũi, lau khô, cắt rốn, bấm răng bỏ vào ô úm (sát trùng cuống rốn và dụng cụ bằng bông y tế nhúng cồn Iốt). Sau đó cho heo con bú "sữa đầu" càng sớm càng tốt để có sức đề kháng chống lại những nhiễm khuẩn phổ biến, giữ ấm cho heo con từ 31-33 0C trong mấy ngày đầu bằng bóng đèn điện hoặc rơm, bao bố. 
4. Bình thường heo đẻ 5-10 phút/con. Nếu ra nước ối và phân xu sau 1-2 giờ rặn đẻ nhiều mà không đẻ hoặc con nọ cách con kia trên 1 giờ thì phải mời thú y can thiệp. 
5. Trường hợp heo mẹ khỏe, bình thường không nằm đè con thì nên cho heo con bú tự do là tốt nhất. Nếu nhốt vào ô úm thì tối thiểu cho bú 1 giờ 1 lần. Nên sắp xếp heo con có khối lượng nhỏ cho bú vú phía trước để đàn heo con phát triển đều. 
6. Heo con đẻ ra trong 1-3 ngày đầu chích sắt liều 200 mg/con (1-2 cc/con). Nếu heo mẹ thiếu sữa thì có thể cho heo con ăn dặm thêm các chế phẩm dinh dưỡng dành cho heo con sơ sinh. Từ 7-10 ngày tập cho heo con ăn bằng loại thức ăn dễ tiêu. Thiến heo đực vào khoảng 3-7 ngày tuổi. 
7. Nên tập heo con ăn sớm để có thể cai sữa. Tùy điều kiện thức ăn và tình trạng đàn heo mà cai sữa hợp lý. Nên cai sữa vào khoảng từ 28-35 ngày tuổi. 
8. Heo mẹ đẻ xong, theo dõi số lượng nhau ra. Thụt rửa tử cung bằng thuốc tím 0,1%. Ngày thụt 2 lần, mỗi lần 2-4 lít, nếu sốt cao phải chích kháng sinh, hoặc mời thú y can thiệp. 
9. Heo nái đẻ xong nên cho ăn tăng dần, từ ngày thứ 3 hoặc thứ 4 trở đi cho ăn thỏa mãn nhu cầu. 
10. Thời kỳ heo nái nuôi con, thức ăn phải tốt, máng phải sạch sẽ, không để thức ăn mốc, thừa, máng uống phải luôn đầy nước vì heo tiết sữa sẽ uống rất nhiều nước, không nên thay đổi thức ăn của heo nái.   
VI. CAI SỮA HEO  
1. Gần ngày cai sữa nên giảm lần bú của heo con và tăng lượng thức ăn để chuẩn bị cho giai đoạn sống tự lập. Đồng thời giảm thức ăn của heo mẹ để giảm tiết sữa. 
2. Ngày cai sữa cho heo mẹ nhịn ăn, sau đó cho ăn tăng lên để sớm động dục lại. Sau cai sữa 4-7 ngày heo nái động dục lại là tốt. Heo con giảm ½ khẩu phần sau đó tăng lên từ từ theo đủ nhu cầu.
3. Heo con sau cai sữa cần được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt, nên nuôi heo trên lồng sắt sau cai sữa là tốt nhất.   
VII. SỬ DỤNG THỨC ĂN CHO HEO MẸ VÀ HEO CON  
1. Heo nái nuôi con: Nên sử dụng thức ăn hỗn hợp của các xí nghiệp thức ăn gia súc có uy tín, mới sản xuất. 
2. Heo con từ tập ăn đến 20 kg: Nên sử dụng thức ăn hỗn hợp của các xí nghiệp thức ăn gia súc có uy tín, mới sản xuất. 
3. Khi dùng thức ăn đậm đặc trộn với nguyên liệu địa phương thì: Phải trộn theo tỷ lệ của nhà sản xuất. Yêu cầu dùng nguyên liệu thật tốt, không bị ẩm mốc, sâu mọt.  
B. KỸ THUẬT NUÔI HEO THỊT  
I. THỨC ĂN VÀ CÁCH CHO ĂN  
1. Thức ăn:   Thức ăn là yếu tố quan trọng nhất trong chăn nuôi heo thịt, thức ăn tốt giúp heo mau lớn, lãi suất cao, nâng cao phẩm chất quầy thịt. Tùy theo điều kiện cụ thể của từng hộ chăn nuôi mà sử dụng các phương thức sau:
- Dùng thức ăn đậm đặc trộn nguyên liệu sẵn có ở địa phương.
- Dùng thức ăn tự trộn.
- Dùng thức ăn hỗn hợp (hay cám bao) của các Xí nghiệp Thức ăn gia súc có uy tín.
* Chú ý: Khi phối hợp khẩu phần cần lưu ý đến tỷ lệ tối đa của một số nguyên liệu.
- Khoai mì: Có chứa HCN rất độc, nên sử dụng nguyên liệu đã qua chế biến.
- Đậu nành phải được rang chín, nếu cho ăn sống dễ gây tiêu chảy, nhưng không nên rang cháy.
- Bột cá: Sử dụng bột cá loại tốt, không nên để lẫn sạn, cát…
- Premix: Là chế phẩm bổ sung thêm axit amin, vitamin, khoáng vi lượng… Premix có nhiều loại khác nhau Aminoaxit (Mỹ), Vitamin (Nhật), Embavit (Anh), premix cho các loại heo số 1-4 (Bayer), Polypac (Đại học Nông lâm Tp HCM). Liều lượng theo lời chỉ dẫn.
- Một số công thức trộn thức ăn heo thịt (để tham khảo):
2. Chế độ cho ăn:
   Khi heo mới bắt về cho ở chuồng riêng càng xa heo cũ càng tốt. Ngày đầu không nên tắm heo, nên cho heo ăn (nhất là heo con) ăn khoảng 1/2 nhu cầu, sau 3 ngày mới cho ăn no, thời gian đầu sử dụng cùng loại thức ăn với nơi bán heo, sau đó nếu thay đổi loại thức ăn thì phải thay đổi từ từ.
   Căn cứ vào đặc điểm phát triển của heo và điều kiện chăn nuôi của từng hộ mà có 2 phương thức cho ăn:
- Phương thức cho ăn tự do: Cho heo ăn tự do theo nhu cầu từ cai sữa đến xuất chuồng. Phương thức này có ưu và khuyết điểm như sau:
+ Ưu điểm: Heo mau lớn nên thời gian nuôi ngắn, quay đồng vốn nhanh.
+ Khuyết điểm: Không tiết kiệm được thức ăn, heo có tỷ lệ mỡ cao.
- Phương thức cho ăn định lượng:
¨ Heo dưới 60 kg: Ở giai đoạn này cho ăn tự do theo nhu cầu phát triển của heo (ở giai đoạn dưới 30 kg nên cho heo ăn nhiều bữa trong ngày).
¨ Từ 61 kg đến lúc giết thịt: Ở giai đoạn này nếu cho ăn nhiều heo sẽ mập do tích lũy mỡ, nên cho ăn hạn chế khoảng 2,3 - 2,7 kg/con/ngày và sử dụng đúng loại thức ăn. Phương thức này có ưu và khuyết điểm như sau:
+ Ưu điểm: Tiết kiệm được thức ăn, heo có tỷ lệ nạc cao hơn phương thức cho ăn tự do.
+ Khuyết điểm: Thời gian nuôi kéo dài.    
II. NƯỚC UỐNG  
Nước uống cho heo phải sạch sẽ và đủ lượng nước theo nhu cầu.   
III. CHĂM SÓC
- Luôn đảm bảo đàn heo sạch sẽ, thoáng mát, khu vực chăn nuôi phải yên tĩnh, không xáo trộn ảnh hưởng đến heo.
- Thường xuyên kiểm tra phát hiện những trường hợp bất thường xảy ra. Đánh dấu theo dõi, kiểm tra thức ăn hàng ngày để điều chỉnh kịp thời.
- Thường xuyên kiểm tra nước uống, thức ăn trước khi dùng.  
IV. XUẤT BÁN HEO
- Khi đến thời kỳ xuất chuồng chúng ta có thể sử dụng công thức để ước tính trọng lượng heo: P (kg) = 87,5 x (vòng ngực)2 x dài thân
Ví dụ: Heo có vòng ngực 90 cm, dài thân 85 cm, thì trọng lượng sẽ là: 87,5 x (90)2 x 85 = 60,24 kg.
Lưu ý: Khi đo phải để heo đứng ở tư thế thoải mái.
- Nên xuất heo vào giai đoạn đạt trọng lượng từ 90-100 kg/con.
- Nếu đang dùng kháng sinh để phòng bệnh thì phải ngưng thuốc từ 1-2 tuần trước khi xuất chuồng.
- Ngày xuất chuồng phải tắm rửa vệ sinh sạch sẽ. Nên xuất chuồng vào buổi sáng sớm hoặc xế chiều, cho uống nước đầy đủ, không nên cho ăn no tránh heo chết do vận chuyển.   
C. PHÒNG NGỪA DỊCH BỆNH   
I. VỆ SINH PHÒNG BỆNH:   
1. Vệ sinh chuồng trại:
- Ngăn cách khu vực chăn nuôi heo với các súc vật khác như: Chó, mèo…
- Rửa và phun thuốc sát trùng chuồng trại sạch sẽ ít nhất 3-7 ngày trước khi thả heo vào chuồng. - Hàng ngày phải quét phân trong chuồng giữ cho chuồng luôn khô ráo, sạch sẽ. - Xử lý xác chết gia súc nghiêm ngặt: Chôn sâu, đốt...
- Nên có kế hoạch rửa chuồng, phun thuốc sát trùng và diệt ruồi, muỗi mỗi tháng một lần.   
2. Vệ sinh thức ăn và nước uống:
- Thường xuyên kiểm tra thức ăn trước khi cho heo ăn, thức ăn phải đảm bảo chất lượng, không bị thiu, thối, mốc…
- Nếu sử dụng thức ăn tự trộn thì định kỳ phải trộn kháng sinh vào thức ăn để ngừa bệnh cho heo.
- Nước uống phải đủ, sạch và không bị nhiễm bẩn.   
II. TIÊM PHÒNG CHO HEO   
1. Heo nái
- Trước khi phối giống chích ngừa đầy đủ các loại vaccin phòng bệnh dịch tả, tụ huyết trùng, phó thương hàn.
- Định kỳ chích ngừa cho heo nái các bệnh giả dại, parvovirus, viêm phổi theo sự hướng dẫn của nhà sản xuất.   
2. Heo con:
- Chích ngừa đầy đủ các loại vaccin phòng bệnh phó thương hàn, tụ huyết trùng, dịch tả, sau 2-3 tuần chích lập lại lần 2.
- Bắt buộc chích ngừa bệnh Lở mồm long móng và cấp giấy chứng nhận tiêm phòng bệnh lở mồm long móng theo sự hướng dẫn của trạm thú y địa phương.   
D. MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP   
I. BỆNH VIÊM TỬ CUNG: Thường xảy ra sau khi sinh 1-5 ngày.   
1 Nguyên nhân:   
- Bị nhiễm trùng khi phối giống do: Dụng cụ thụ tinh, tinh nhiễm khuẩn, thao tác thụ tinh không đúng kỹ thuật, không vệ sinh vùng âm hộ của heo nái khi phối, heo đực bị viêm niệu quản (khi phối trực tiếp).
- Bị nhiễm trùng khi sanh do: Chuồng trại thiếu vệ sinh, dụng cụ, tay không sát trùng, đỡ đẻ không đúng kỹ thuật, heo con quá lớn khi đẻ gây xây xát, kế phát của bệnh sót nhau.   
2. Triệu chứng: Heo sốt 40-41 0C, kém ăn hoặc bỏ ăn, chất nhầy và mủ chảy ra ở âm hộ trắng đục hôi thối.   
3. Điều trị:  
- Dùng một trong những loại kháng sinh sau: Ampicillin: 2 g/ngày; Penicillin: 3-4 triệu UI/2 lần/ngày; Tylan: 7-8 mg/kg trọng lượng/ngày; Septotrim 24% 1 cc/15 kg trọng lượng/ngày. Để tăng sức đề kháng và mau lành ta dùng thêm: Anagin: 2 ống 5cc; Vitamin C: 2 g/ngày; Dexamethasol: 5-10 mg/ngày. 
- Thụt rửa tử cung bằng thuốc tím 0,1% ngày 1 lần từ 2-4 lít, sau khi thụt rửa 30 phút dùng Penicillin 2-3 triệu UI bơm vào tử cung.   
II. Bệnh viêm vú:   
1. Nguyên nhân:    Vú bị xây xát dẫn đến nhiễm trùng (do răng heo con cắt không sát, chuồng trại thiếu vệ sinh), kế phát bệnh viêm âm đạo, tử cung, sót nhau dẫn đến viêm vú, sữa mẹ quá nhiều, heo con bú không hết dẫn đến viêm vú.   
2. Triệu chứng:    Heo sốt cao 40-410C, bỏ ăn, phân táo, vú sưng, nóng, đỏ, đau, vú viêm không cho sữa, vắt sữa thấy lợn cợn màu trắng xanh vàng. Heo con bú sữa viêm bị tiêu chảy.   
3. Điều trị: - Nếu kế phát bệnh viêm âm đạo tử cung, sót nhau ta phải điều trị.
- Dùng thuốc kháng sinh và tăng sức đề kháng tương tự bệnh viêm tử cung.
- Chườm lạnh vú viêm để giảm hiện tượng viêm đồng thời vắt bỏ sữa bị viêm.
- Khi đã hồi phục để tăng khả năng cho sữa: Chườm nóng bầu vú, chích Oxitocin: 10 UI/ngày, 3-4 ngày, dùng chế phẩm có chứa Thyroxine, khoáng, vitamin bổ sung cho nái.
Chú ý: Ta nên chích kháng sinh vào quanh gốc vú hoặc tĩnh mạch để bệnh mau lành.   
III. Bệnh mất sữa:    Thường xảy ra từ 1-3 ngày sau sanh.   
1. Nguyên nhân:     Kế phát bệnh viêm vú, bệnh viêm tử cung, sót nhau, suy dinh dưỡng lúc mang thai, đặc biệt thiếu can xi, năng lượng, Vitamin C, suy nhược một số cơ quan nội tiết.   
2. Triệu chứng:    Vú căng nhưng không có sữa, sau đó teo dần, không sốt hoặc sốt cao (kế phát bệnh viêm vú, viêm tử cung, sót nhau), dịch nhầy chảy ra ở âm môn, đi đứng loạng choạng, có khi bị bại liệt, lượng sữa giảm dần rồi mất hẳn.   
3. Điều trị:     Nếu là kế phát bệnh viêm vú, viêm tử cung, sót nhau thì ta phải điều trị các bệnh này. Ngoài ra ta còn sử dụng: Thyroxine: 2 mg/ngày chích bắp hoặc tĩnh mạch 4-5 ngày (hoặc dùng các chế phẩm kích thích tiết sữa: Lactoxil, Thyroxine… cho nái ăn); chích Oxitoxine: 10 UI/lần/ngày dùng 4-5 ngày; Glucoza 5%: 250 cc/ngày 3-4 ngày chích tĩnh mạch, phúc mạc hay dưới da; Gluconatcanxi 10%: 10 cc/ngày chích tĩnh mạch 3-4 ngày (nếu nái bị bại liệt ta dùng Gluconatcanxi: 50 cc/ngày 3-4 ngày) đồng thời ta dùng thêm Vitamin C, Vitamin B12, Bcomlex… và khoáng chất.   
Chú ý: Khi dùng Thyroxin đòi hỏi thân nhiệt phải bình thường: 38 - 390C.   
IV. Bệnh heo con tiêu chảy phân trắng:  
Bệnh thường xảy ra ở heo con theo mẹ dưới 30 ngày tuổi.   
1. Nguyên nhân:
- Chuồng trại thiếu vệ sinh, lạnh, ẩm ướt.
- Đối với heo mẹ: Do thiếu dinh dưỡng lúc mang thai, đặc biệt thiếu vitamin A, thay đổi đột ngột khẩu phần heo mẹ lúc nuôi con, heo mẹ có thể bị một số bệnh: Phó thương hàn, viêm vú, viêm tử cung, sót nhau …
- Đối với heo con: Thiếu sữa đầu, thiếu nguyên tố vi lượng, đặc biệt là thiếu sắt, heo con bị viêm rốn, thức ăn cho heo con bị chất lượng kém, chua mốc, heo con bị nhiễm một số virus: Rotavirus, Coromavirus; Vi trùng Ecoli, Clostridium, Samonilla, cầu trùng.   
2. Triệu chứng:    Heo con thường không sốt hoặc sốt nhẹ, thời kỳ đầu bụng hơi chướng, về sau bụng tóp, lông xù, đít dính phân nhoe nhoét, ói mửa (ít xảy ra). Đặc trưng là phân lỏng trắng như vôi, vàng đôi khi có bọt, cá biệt có thể có máu, phân có mùi tanh đặc biệt.   
3. Điều trị:      Trước khi điều trị ta phải xác định rõ nguyên nhân, vừa điều trị nguyên nhân, vừa điều trị triệu chứng tiêu chảy trên heo con thì mới có kết quả.    - Điều trị tiêu chảy: Thuốc cầm tiêu chảy (se niêm mạc ruột) cho uống các chất chát: Lá ổi, cỏ sữa, măng cụt... Bổ sung vi khuẩn đường ruột: Dùng Biolactyl: 1 g/con/ngày. Dùng kháng sinh uống hoặc chích một trong những loại sau (từ 2-3 ngày liên tục): + Uống: Baytrill 0,5%: 1 cc/5 kg trọng lượng/ngày; Flumcolistin: 1 cc/3-5 kg trọng lượng/ngày; Spectinomycine: 1 cc/4-5 kg trọng lượng/ngày; Baycox 2,5 %: 0,8 cc/kg trọng lượng/ngày (nghi bị cầu trùng). + Chích: Baytrill 2,5%: 1 cc/ 10 kg trọng lượng/ngày; Septotrim 24 %: 1 cc/10 kg trọng lượng/ngày; Bencomycine S: 1 cc/ 15-20 kg trọng lượng/ngày; TyloPC: 1 cc/5 kg trọng lượng/ngày. Để phòng mất nước, chất điện giải ta bổ sung thêm Orezol, Lactatringer…/

Saturday, May 14, 2011

Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây sanh

Lá xanh dày và phân bố trên cành với mật độ cao tạo ra phần tán lá rậm rạp, xum xuê. Quả khi chín có màu vàng trong có hạt và có khả năng mọc mầm tạo ra cây con theo lối sinh sản hữu tính.

Sanh có tên khoa học là Ficus indica L. thuộc họ Morace
Đặc điểm hình thái cấu tạo:
Là cây thân gỗ, trong điều kiện tự nhiên có thể đạt chiều cao 15-20m, có khả năng phân cành cao và trên thân hoặc cành thường là hình các u bướu và các sống gờ do sự sinh trưởng mạnh. Ngoài rễ dưới đất, sanh còn hình thành rễ ở trên bề mặt đất từ cành lớn hoặc thân. Rễ này thường gọi là rễ khi sinh hình thành nhiều trong mùa mưa, ẩm và có hai loại phân biệt ở khả năng ăn dài xuống đất hình thành rễ cọc cho cây . Cành dẻo dễ uốn.

Lá xanh dày và phân bố trên cành với mật độ cao tạo ra phần tán lá rậm rạp, xum xuê. Quả khi chín có màu vàng trong có hạt và có khả năng mọc mầm tạo ra cây con theo lối sinh sản hữu tính. Ngoài phương thức sinh sản này thì phương thức nhân giống chủ yếu của Sanh là nhân bằng con đường vô tính từ các cành, rễ.

* Nguồn gốc, nhu cầu sinh thái:

Sanh có mặt ở các vùng nhiệt đới ẩm và hiện nay thường gặp hầu hết các vùng của đất nước Việt Nam. Chúng sinh trưởng và phát triển tốt ở vùng có khí hậu nhiệt đới ẩm (nóng và mưa nhiều ) và hình thành các trồi lá mạnh vào mùa mưa. Yêu cầu nước cao để sinh trưởng và phát triển, có khả năng chịu ngập úng ở thời gian dài. Khi khô hạn hoặc thiếu nước cây sinh trưởng chậm, hình thành các lá vẩy bao vây lấy điểm sinh trưởng ngọn cành hay thân và trên thân thường xuất hiên các điểm lồi trắng. Sanh cũng được trồng ở những vùng đông lạnh.

Sanh thích hợp trên nhiều loại đất và có thể bám trên đá để sống miễn là có nước cho sinh trưởng của cây. Chúng cũng được trồng trong điều kiện chiếu sáng rất khác nhau nhưng thích hợp nhất là trong điều kiện chiếu sáng tán xạ.

* Kỹ thuật nhân giống:

Sanh là loại cây rất có thể nhân giống và có thể nhân theo phương thức hữu tính (từ hạt ) và phương thức vô tính ( từ cành râm, cành triết).

*Kỹ thuật trồng: Cây con đem trồng ra luống đất hoặc chậu phải có bộ rễ tốt và kích thước nhất định để nhanh tạo được giáng, thế yêu cầu. Đất trồng nên chọn các đất tốt, giàu mùn và có thành phần cơ giới trung bình hay hơi nặng, không nên trồng trên đất sét, gan gà vì như vậy cây sinh trưởng chậm mặc dù vẫn ra lá, cành. Trong trường hợp đất sấu hoặc đất quá nặng cần bón lót thêm phân truồng làm đất trước khi trồng.

Sau khi trồng phải tiến hành chăm sóc thường xuyên như : cắt bỏ các nhánh vô ích, bấm ngọn đặc biệt là tưới giữ ẩm cho đất để duy trì sinh trưởng sự phát triển cuả cây và làm cho thân cây chóng to

Kỹ thuật nuôi dế

Nhiều nước, nhất là các nước ở Châu Á coi một số loại côn trùng là món ăn ngon. Ở nước ta các loại côn trùng như cào cào, châu chấu, dế, tằm, sâu chit, nhộng tằm, rươi. là những loại côn trùng được dùng làm món ăn, một số nơi được coi là món ăn quý. Với loài dế cũng có nhiều giống như: dế ché, dế cơm to con, thân màu nâu đen, hai chân sau to có màu nâu sẩm.
Trong tự nhiên có rất nhiều loại dế như: dế ta, dế mèn, dế cơm, dế mọi, dế chó, dế dũi… Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu kỹ thuật nuôi dế ta. 

I.Giống và đặc điểm giống
Vóc dáng: Dế ta có kích thước trung bình với chiều dài cơ thể khoảng 2cm. Dế ta có 3 màu đặc trưng như: đen huyền, đỏ hoe và vàng nghệ.
Tập tính sinh hoạt và môi trường sống: Trong tự nhiên, dế ta sinh trưởng, phát triển và sinh sản quanh năm, nhưng nhiều nhất là vào mùa mưa. Dế ta có bản tính hung hăng, nhưng lại thích sống theo bầy đàn, môi trường sống rất đơn giản, không cầu kỳ, có thể ở hang hay trong những đám cỏ khô… nên có thể tổ chức chăn nuôi công nghiệp, nhưng phải đảm bảo chuồng trại nuôi dế tương tự như môi trường thiên nhiên hoang dã. Môi trường sống tự nhiên, dế sẽ ít dịch bệnh, ít tốn công chăm sóc. Dế leo trèo rất giỏi và có thể nhảy xa chừng nửa mét. Đặc biệt, tối đến dế có thể bay xa hàng mét…
Tuổi thọ: Tuổi thọ của các loại dế khác nhau. Tuổi thọ của dế ta trung bình là 4 tháng.
Thức ăn: Chủ yếu là rau, cỏ, củ, quả, trái cây, mầm cây, côn trùng nhỏ và bột ngũ cốc các loại… Dế ít uống nước, nhưng phải thường xuyên có đủ nước sạch và mát cho dế uống tự do.
Sinh trưởng, phát dục: Trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển dế ta trải qua 4 lần lột xác. Sau mỗi lần lột xác dế ta lớn nhanh hơn. Từ lúc nở ra cho đến khoảng 45 ngày tuổi là đã có thể xuất bán. Từ ngày thứ 45 trở đi dế phát triển cánh. Hai tháng tuổi dế đã thành thục sinh dục và có thể ghép đôi giao phối cho sinh sản. Với chiều dài cơ thể khoảng 2cm, nặng khoảng 800-1.000 con/kg.
Sinh sản: 60 ngày tuổi dế đã trưởng thành và bắt đầu sinh sản. Thời kỳ sinh sản của dế ta diễn ra quanh năm. Khi trưởng thành chúng cất tiếng gáy “tè tè” rất êm tai để mời gọi bạn tình. Dế mái có biểu hiện động dục (thích gần dế đực) trước lúc đẻ khoảng 15 ngày. Khi đẻ dế mái tìm đến những chỗ đất tơi xốp và ẩm để đẻ trứng, mỗi lần đẻ vài trăm trứng. Dế mới nở có màu đen, một tháng tuổi mới thể hiện màu đặc trưng của dế, hai tháng tuổi thì dế ta đã trưởng thành.
Giá trị và thị trường: Nhiều nước, nhất là các nước ở châu Á coi một số loại côn trùng là món ăn ngon. Ở nước ta các loại côn trùng như dế, cào cào, châu chấu, sâu chít, nhộng tằm, rươi, bọ xít, bọ cạp, bọ hung, sâu đục thân, kiến… là những loại côn trùng phổ biến trên các loại cây trồng, chỉ cần nghe tên thôi cũng làm cho nhiều người “ghê sợ”. Thế nhưng, trong những nghiên cứu mới đây, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng côn trùng có rất nhiều tác dụng bổ ích đối với con người, đặc biệt có thể sử dụng chúng như những món ăn thuộc hàng “đặc sản”.
Một số món ăn từ dế: Trước khi chế biến các món ăn từ dế, cần rút ruột, bóp bụng dế để bỏ ruột phân, rửa sạch sau đó mới chế biến. Dế có thể chế biến được nhiều món như chiên giòn, chiên bơ, lăn bột, kho tiêu, xào mì, trộn gỏi, rim mặn, lẩu... ăn cùng với bánh phồng tôm, bánh tráng hoặc cuốn bánh tráng với rau sống là những món ăn đặc sản từ dế. Hiện nay, dế là một trong những món ăn được các nhà hàng, quán nhậu tiêu thụ rất mạnh với giá 250.000- 300.000 đồng/kg.
II.Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng dế
Chọn giống: Chọn dế giống bố mẹ là tơ mới biết gáy, dế mái chưa sinh sản, to, khỏe mạnh nhất trong đàn, không dịch bệnh, dị tật (đủ râu, chân…).
Chuồng trại: Cao ráo, yên tĩnh, thoáng mát có mái che mưa che nắng, xung quanh có lưới đề phòng mèo, chuột bắt dế, có rãnh nước đề phòng kiến xâm nhập gây hại cho dế…
+ Chuồng nuôi và thiết bị chăn nuôi:
- Chuồng nuôi: Chuồng nuôi có thể là xô, thau, khay, chậu… có nắp đậy nhưng phải đảm bảo yên tĩnh, thoáng mát. Nắp đậy, có thể là cái lồng bàn hoặc nắp xô đục nhiều lỗ tạo thông thoáng, ban ngày mở ra, chiều tối đậy lại để phòng tránh dế bay đi và mèo, chuột bắt dế… Trước khi nuôi phải rửa sạch, phơi khô chuồng nuôi và trang thiết bị phục vụ chăn nuôi dế.
Tùy theo phương tiện và điều kiện nuôi mà bố trí số lượng nuôi hợp lý. Nuôi dế giống bố mẹ (ép đẻ) trong xô có dung tích 40-50 lít thì thả 20 dế cái, 10 dế đực. Trong xô 80-80 lít thì thả 30 dế cái và 15 dế đực…
- Thiết bị chăn nuôi: Rế tre, máng đẻ, máng thức ăn, nước uống cho dế đơn giản, có thể dùng vỏ nghêu, hoặc làm bằng xi măng, đồ sành sứ kích thước không quá lớn nhằm hạn chế dế con té chết (đường kính khoảng 10-15 cm, dày khoảng 1,5-2,0 cm, sâu khoảng 0,5-1,0 cm).
Trong chuồng nuôi, có rế tre (rế để xoong nồi đường kính 15-20 cm) hay vỉ tre, rế có lỗ nhỏ (dày) nuôi dế con mới nở đến 25 ngày tuổi, loại thưa nuôi tiếp theo đến thu hoạch. Xô loại 45 lít xếp khoảng 10 rế, xô 80 lít thì 15 rế. Rế xếp chồng lên nhau tạo khoảng trống để máng đẻ, máng thức ăn, nước uống cho dế. Đất dùng trong máng đẻ là đất sạch, tơi xốp, ẩm vừa phải, có độ dày 3 - 4 cm (có thể dùng đất sạch trộn với xơ dừa xay). Không dùng đất có kiến, đất bị nhiễm hóa chất độc hại... Trên cùng phủ một lớp cỏ cho dế ăn, ở, sinh trưởng phát triển và sinh sản…
Thức ăn: Thức ăn chủ yếu của dế là cỏ, cám hỗn hợp (thường dùng cám gà con), nên xay cám thành bột cho dế ăn, bảo quản nơi khô ráo, không mua nhiều một lúc dễ bị mốc. Cho ăn thêm rau xanh, cải ngọt, cà rốt, củ sắn, cỏ tươi... Có thể cho dế ăn thêm miếng dưa hấu (nhớ cắt bỏ phần ruột đỏ), lấy phần sát vỏ, không để nhiều. Cần lưu ý thức ăn chỉ ăn trong ngày, còn dư phải bỏ, không cho dế ăn mầm đậu các loại, chúng sẽ bị rụng râu, chân mà chết.
Dế mỗi ngày một trưởng thành, nên lượng thức ăn ngày càng tăng lên tùy thuộc vào sức ăn của dế. Hàng ngày nước được phun sương để giữ ẩm và cho dế uống.
Chăm sóc nuôi dưỡng:
+ Chăm sóc nuôi dưỡng dế sinh sản:
- Thả giống: Theo tỷ lệ 1 trống/2 mái. Xô nhựa nhỏ thả 15 dế trống và 30 dế mái vừa mới trưởng thành. Xô nhựa lớn 80 lít có thể thả 25 dế trống và 50 dế mái.
- Đẻ trứng: Sau khi thả giống 2-3 ngày dế đẻ trứng vào máng đẻ.
Dấu hiệu dế sắp đẻ: Dế mái thường thụt lùi và chọc cây kim nhọn sau đuôi xuống đáy xô. Lúc này ta đặt máng đẻ vào là dế leo lên đẻ ngay (trong máng đẻ đã để sẵn đất sạch tơi xốp và đủ ẩm).
Khi dế có dấu hiệu sắp đẻ ta đặt máng đẻ vào xô nuôi dế bố mẹ hàng đêm cho dế đẻ. Cứ sau mỗi đêm máng đẻ được lấy ra đưa đi ấp, tối đến đưa máng mới vào xô nuôi để dế đẻ tiếp. Mỗi đêm 30 con dế mẹ có thể đẻ hàng nghìn trứng vào máng đẻ. Dế chỉ đẻ trong vòng hai tháng là thải loại.
Dế rất nhát, vì vậy ta nên để máng đẻ vào buổi tối. Mỗi tối để vào một máng đẻ, sáng hôm sau lấy máng đẻ ra để vào xô ấp trứng ở một khu vực khác.
- Ấp trứng: Xô ấp trứng được thiết kế như sau:
Bỏ một lớp đất xốp vào đáy xô, cao khoảng 1cm, rộng khoảng 3cm. Để 3 máng trứng vào chính giữa xô, phủ lên một lớp cỏ mỏng, mỗi ngày phun nước 1- 2 lần để giữ ẩm. Hoặc trước khi cho máng trứng vào xô ấp trứng, ta chuẩn bị hai khăn bông vuông (loại khăn lạnh lau mặt ở các nhà hàng), nhúng nước ướt rồi đặt dưới đáy thùng ấp, sau đó đặt máng trứng trên khăn ướt và dùng khăn ướt thứ hai đã nhúng nước đậy lên máng trứng để giữ độ ẩm. Sau khi đã làm xong các việc nói trên đậy nắp thùng lại. Cứ 3-4 ngày, thay khăn ướt một lần để giữ độ ẩm. Nhiệt độ cần cho trứng nở khoảng 25-30oC (nhiệt độ phòng). Sau 8-12 ngày là dế nở. Khi thấy dế đã nở hết, ta lấy khay đẻ ra khỏi xô ấp và chuyển dế con vào xô ương nuôi riêng.
Để dế đẻ nhiều và dế con khỏe mạnh, cần lưu ý: Vệ sinh chuồng nuôi và thiết bị chăn nuôi sạch sẽ, khô ráo, máng thức ăn phải được che đậy, tránh nước gây nấm mốc... Sau đó, để máng đẻ vào đáy xô lệch sang một bên, bên kia để một máng thức ăn, một máng nước, úp chồng rế lên, phủ lên rế một ít cỏ tươi. Phun nước dạng sương lên cỏ tươi mỗi ngày 1-2 lần tạo nhiệt độ trong xô 25-30oC. Sau khi dế đẻ một ngày, chuyển máng trứng sang thùng ấp và đặt máng đẻ khác vào trong xô nuôi. Có thể dùng thùng các-tông loại dày hoặc khay nhựa có kích thước 60 x 40 x 20 cm để ấp trứng, mỗi thùng có thể để 8-10 máng trứng. Thùng ấp phải kín, có nắp đậy (dùng lưới muỗi), theo dõi hàng ngày, tránh kiến gây hại…
+ Ương nuôi dế con: Dế con mới nở, ta chuyển sang ương nuôi riêng trong xô nhựa, trung bình khoảng 1.000 con/xô 80 lít. Lúc này ta để thức ăn của gà con xay nhuyễn vào cho dế mới nở ra ăn, ngày 2-3 lần và bỏ vào xô nuôi một lớp cỏ tươi non cho dế con trú ẩn và nhấm nháp. Mỗi ngày tiếp tục phun nước 1-2 lần để giữ ẩm và cho dế uống. Ương nuôi dế con đến 20 ngày ta chuyển sang nuôi dế thịt thương phẩm.
+ Nuôi dế thịt thương phẩm: Đặt rế, máng thức ăn, nước uống, phủ cỏ tươi như nuôi dế đẻ nhưng số lượng nhiều hơn (400-500 con với xô 80 lít, 300 con ở xô 45 lít). Chăm sóc và phun nước ngày 1-2 lần, tránh nước đọng, ẩm mốc trong xô, tránh để thức ăn tồn dư, ẩm ướt, hôi mốc và không để máng đẻ trong xô nuôi như nuôi dế đẻ.
Ngoài ra, có thể làm chuồng nuôi dế bằng xi măng, kích thước một ô rộng 1 m x dài 1,2 m x cao 0,5 m, mặt tường nhẵn tránh dế bò ra, che đậy bằng lưới phía trên, nuôi 1.000 con/m2. Chuồng xây xong cần ngâm nước cho hết chất xi măng. Xung quanh chuồng làm rãnh nước tránh kiến, côn trùng xâm hại… Chồng vào 25 rế, tạo khoảng không cho dế. Cũng cần chăm sóc như nuôi trong xô, chú ý phun nước (dạng sương) 2-3 lần/ngày.
Thức ăn tinh cho ăn hàng ngày, thức ăn thô xanh rau, củ, quả các loại thì 2-3 ngày mới cho ăn một lần, nhưng chỉ ăn trong ngày, thức ăn còn dư phải bỏ. Riêng cỏ xanh có thể 2-3 ngày mới cho ăn và thay mới một lần.
Dế con được 20 ngày, chuyển qua nuôi dế thịt thương phẩm khoảng 45 ngày thì có thể thu hoạch (800-1.000 con được 1 kg), xuất bán thịt hoặc tuyển chọn dế tơ làm giống nuôi đến 60 ngày thì cho phối giống sinh sản.
Chú ý: Dế sắp trưởng thành tối đến thường hay bay đi kiếm ăn và hoạt động tình dục... Vì vậy, chiều tối ta nên đậy nắp xô lại sáng sớm mới mở ra cho thoáng mát.
Thu hoạch: Dùng vợt nylon nhỏ thu hoạch, cho vào thùng giấy cùng với rế, cỏ tươi di chuyển xa dế không chết. Có thể đông lạnh sau khi rửa sạch dế bằng nước sạch hoặc nước muối 2% và cho vào khay đông lạnh.
Chăm sóc nuôi dưỡng dế đơn giản, ít vốn, ít dịch bệnh, dễ thực hiện mang lại hiệu quả kinh tế cao, ai cũng có thể nuôi được.
Phòng và trị bệnh: Với phương châm phòng bệnh là chính, thực hiện tốt chương trình 3 sạch: ở sạch, ăn sạch, uống sạch. Đặc biệt, khi thời tiết hoặc môi trường sống thay đổi, cần phải vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng thật tốt để tăng cường sức đề kháng, chống stress gây hại cho dế…
Dế ta thường hay bị một số bệnh, nhất là bệnh đường ruột.
Bệnh đường ruột:
- Nguyên nhân: Có thể do mật độ quá cao, chuồng nuôi quá nóng ẩm hoặc chuồng nuôi bị nước đổ vào lẫn phân, thức ăn gây ô nhiễm môi trường hoặc thức ăn bị ôi mốc, nước uống lẫn phân, dơ bẩn, mất vệ sinh…
- Triệu chứng: Dế đang ăn uống, khỏe mạnh bình thường, đột ngột bỏ ăn chỉ uống nước rồi yếu dần, râu gãy ngang, phân nước trắng đục, 7-10 ngày sau thì dế chết. Bệnh này rất dễ lây lan sang những con ở cùng một xô, rất khó trị.
- Phòng và trị bệnh: Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Phòng bệnh là chính bởi khi chúng ta phát hiện ra triệu chứng thì đã muộn. Tốt nhất nên giữ gìn vệ sinh chuồng nuôi sạch sẽ, khô ráo, thoáng mát, thức ăn, nước uống phải thay rửa hàng ngày… 
Địa chỉ mua bán dế:
- Trại dế Thanh Tùng, ấp Bến Đò 2, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, TP HCM. ĐT: 08 7 961753.
- Trại dế Huỳnh Như, 4/21, ấp 2, xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn, TP HCM. ĐT: 08 7 114150.
- Trại dế Tấn Tài, Địa chỉ: 56/5 KP1, Chương Dương, Thủ Đức, TP.HCM. ĐT: 0919. 285183… 
KS. ĐẶNG TỊNH (NNVN)
Nguồn:Viện chăn nuôi (19/04/2010)

Tuesday, April 12, 2011

Làm giàu từ cây mít Thái


Ông Mười bên cây mít 5 năm tuổi.
Tại ấp Vĩnh Thuận, xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy, hầu như bà con nông dân nào cũng thán phục ông Mười Thông Tin, một nông dân sản xuất giỏi, chuyên trồng mít Thái Changai, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Tên thật của ông là Nguyễn Văn Mười, nhưng bà con quen gọi là Mười Thông Tin vì trước đây ông đã từng là cán bộ ngành văn hóa - thông tin ở địa phương. Ông Mười tâm sự: “Trước đây tôi đã trải qua nhiều nghề, từ đi buôn đến làm ruộng, làm vườn… có lúc trồng xoài cát Hòa Lộc, nghề nào tôi cũng quyết tâm, vắt óc ra làm nhưng kết quả không như ý muốn, khiến cho vợ chồng tôi nhiều đêm trăn trở, nên trồng cây gì, nuôi con gì cho có hiệu quả trên mảnh đất nhà. Thế là trong đầu tôi đã hình thành một ý tưởng nên chọn cây mít, vì đây là mặt hàng có giá trị kinh tế cao và đang tiêu thụ mạnh”.

Trước khi bắt tay vào công việc, ông đã chịu khó học hỏi, nghiên cứu và đi đó đi đây tìm hiểu về các giống mít, từ mít nghệ cao sản, mít Thái siêu sớm (tứ quý) cho đến mít Thái da xanh, mít ruột đỏ, mít Malaysia… giống nào cũng có ưu điểm riêng của nó. Tuy nhiên, làm thế nào để chọn cho được giống mít ngon, năng suất cao, chất lượng tốt, vừa ăn tươi vừa dùng để chế biến, đó mới là điều quan trọng. Vì hiện nay, tại Việt Nam, ngoài những giống mít cao sản bản địa còn có hàng chục giống mới nhập về từ nước ngoài, vàng thau lẫn lộn, có thứ cơm mỏng, có thứ cơm cứng, cơm nhão, lại có thứ xơ nhiều múi ít… rất khó phân biệt loại nào là ưu việt, loại nào phù hợp với đất đai, thổ nhưỡng cho từng vùng. Cuối cùng ông đã quyết định chọn mít Thái Changai để sản xuất.

Theo ông Mười, đây là giống mít dễ trồng, phát triển nhanh, trái sai, múi to, cơm dầy, hạt nhỏ, vỏ mỏng, thơm ngon và ngọt. Hiện nay, khách hàng rất ưa thích và các nhà máy sản xuất cũng chọn loại mít này để sấy khô nên người trồng không lo đầu ra và cũng không sợ bị rớt giá. Khởi đầu năm 2005, ông Mười đã chọn được 400 gốc ghép lấy từ Ô Môn đem về hạ thổ và cây phát triển rất nhanh. Từ niềm phấn khởi đó, ông tiếp tục trồng thêm đợt 2, nâng tổng số lên 1.000 gốc trên tổng diện tích là 16,5 công. Tất cả đều phát triển rất nhanh. Ông nhớ lại: Lúc mới mang mít giống về tới nhà, nhiều người cho rằng, ông không thức thời “trồng gì không trồng lại trồng mít, có trái rồi sẽ đem đổ sông, ai mà mua!”. Bây giờ thì thực tế đã chứng minh “cây mít” mà ông chọn trong thời điểm này không sai chút nào!

Chỉ sau một năm rưỡi là cây bắt đầu có trái chiếng, nhưng đợi đến cây hai năm tuổi, ông mới nuôi trái. Hiện nay, cây nào cũng ra trái no tròn, đều đặn, mỗi trái nặng từ 7-20kg, cá biệt có những trái trên 20kg. Tính bình quân mỗi gốc mít 4 năm tuổi cho khoảng 150 kg/năm, giá bán ra từ 10.000-15.000 đ/kg, tùy loại I, II và III. Tính ra mỗi gốc mít tối thiểu cũng thu về 1,5 triệu đồng/năm. Theo ông Mười, mít ra trái quanh năm, nhưng chỉ nên cho trái hai vụ/năm để cây có thời gian nghỉ ngơi. Thông thường, mỗi cây cho rất nhiều trái, thậm chí cả trăm trái nhưng cần phải tỉa bỏ những trái đầu cành và trên thân cao, chỉ giữ lại những trái ôm thân và sát gốc, tối đa khoảng 15 trái/cây nếu cây dưới 4 năm tuổi. Khi cây trưởng thành, số trái có thể nâng lên nhiều hơn.

Hiện nay, tại Hậu Giang chỉ có vườn mít Thái của ông Mười là trồng với số lượng lớn, sản lượng nhiều nhất. Những lúc cao điểm, mỗi ngày ông thu hoạch từ vài trăm kilôgam đến 1 tấn trái, nhưng không đủ để giao cho các bạn hàng chuyển đi các nơi, nhất là TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội. Ông Mười cho biết thêm: Tuy mít dễ trồng, nhưng phải thường xuyên chăm sóc, bón phân và theo dõi các loài sâu đục trái, đục thân, nhất là bệnh nấm hại cây trong vụ Đông xuân. Ngoài ra, sau mỗi lần hái trái, phải cắt bỏ bớt cành lá rườm rà để cây nhận đầy đủ ánh sáng giúp cho trái to và ngọt. Vì theo kinh nghiệm, mít càng lâu năm, trái sẽ ngọt đậm, thơm và giòn hơn mít tơ.

Có thể nói, vợ chồng ông Mười là những nông dân cần cù, năng động và chịu khó, dám đầu tư và quyết tâm tạo dựng cho khu vườn ngày càng sung túc. Bất cứ ai đến tham quan vườn mít của ông cũng đều ngợi khen đây là một vườn cây đầy ấn tượng, không những trái sai oằn, đầy đặn mà bờ liếp cũng khang trang, áp dụng đúng khoa học kỹ thuật, bảo đảm môi trường sạch đẹp. Với thành tích trên, ông Mười đã nhiều năm liền được chọn là nông dân sản xuất giỏi và vinh dự nhận được giấy khen của huyện Vị Thủy. Bà Lê Thị Thanh Hoa, Trưởng khối vận xã Vĩnh Tường, nhận định: “Ông Nguyễn Văn Mười là một nông dân cần cù, chịu khó, biết áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên vườn mít của ông năng suất rất cao so với nhiều nơi khác”.

Ngoài trồng mít, ông còn kết hợp thả cá trong ao mương và nuôi gà ta theo mô hình VAC. Đặc biệt, ông đã dùng mít non và mít tuyển bỏ rồi bằm nhỏ để làm thức ăn cho gà và cá nên chi phí giảm rất nhiều. Nhờ vậy, chỉ tính riêng tiền thu nhập từ cá và gà mỗi năm cũng trên 70 triệu đồng.

Monday, April 11, 2011

Làm giàu nhờ trồng ớt chỉ thiên

Ông Võ Văn Bé, còn gọi là Hai Bé, 54 tuổi, ở ấp Tân Thạnh, thị trấn Long Bình, huyện An Phú, An Giang là người khởi xướng cây ớt chỉ thiên ở địa phương này. Hiện nay ông đã có 1,5 ha trồng ớt chuyên canh, mỗi vụ lãi trên dưới 200 triệu đồng.


 


Ớt chỉ thiên ít bị sâu bệnh, chịu hạn tốt, ít công chăm sóc. Chỉ cần chú ý khâu thu hoạch: nếu không hái kịp ớt sẽ bị úng, bán mất giá (vừa ửng chín là thu hoạch). Các thương lái ở Campuchia vào tận ruộng mua ớt. Năm nay, đám ớt của ông Hai Bé cho năng suất trung bình 3 - 3,5 tấn/công/vụ, tăng hơn năm ngoái khoảng 500 kg/công bán cho lái 9.000 - 10.000 đồng/kg.
Năm 1989, Hai Bé được cha mẹ cho 2 công ruộng làm lúa, trong một lần đi đám giỗ thấy có người trồng loại ớt có trái hướng lên trời, ăn rất cay và có vị thơm, ông xin về làm giống rồi trồng trên 10.000 cây, năm đầu thu lợi trên dưới 6 triệu đồng. Sau đó ông đầu tư trên 10 triệu đồng...
Với 15 năm kinh nghiệm trồng ớt,  ông cho biết: Trồng cây ớt chỉ thiên cho thu hoạch kéo dài, luân phiên cách nhau một tuần lễ; thu hoạch xong, phải tưới nước, rải phân cho vun thành một lớp đất mỏng, để tạo độ ẩm cho bộ rễ phát triển; làm như vậy, cây ớt không bị mất sức.
Hiện nay ông đã có trong tay 1,5 ha chuyên canh ớt chỉ thiên, mỗi năm trồng hai vụ, trung bình mỗi vụ lãi ròng trên dưới 200 triệu đồng. Từ cây ớt, ông đã xây được căn nhà khang trang, mua xe tải nhỏ chở ớt chỉ thiên thu mua của những hộ lân cận để tập kết đem bán cho lái Campuchia.
Theo phòng nông nghiệp - phát triển nông thôn huyện An Phú, hiện nay huyện có chủ chương khuyến khích nông dân trồng màu, chủ yếu là cây ớt chỉ thiên, vì đất bãi bồi ở đây rất thuận lợi. Ớt chỉ thiên hiện đang có giá rất cao, tiêu thụ mạnh sang Campuchia và TP.HCM (trung bình mỗi ngày xuất qua biên giới hơn 10 tấn). Hiện nay, toàn huyện có trên dưới 100 hecta trồng ớt chỉ thiên, dự kiến năm tới sẽ mở rộng lên khoảng 150 hecta.

Wednesday, March 16, 2011

Một số điểm kỹ thuật trồng Bơ

Trong kỹ thuật canh tác cây bơ, vấn đề chọn giống và phối hợp giống là vấn đề cần có nghiên cứu ứng dụng và hướng dẫn của cán bộ chuyên môn. Như đã trình bày, tất cả các giống bơ (phần lớn) hiện đang cho thu hoạch là những giống lai, giống phân ly; do đó phải nghiên cứu tập tính nở hoa để bố trí giống thích hợp thuộc hai nhóm A và B, là công tác phải được tiến hành ngay để có thể phát triển nghề trồng bơ trong những năm tới. Tuy nhiên, một số điểm kỹ thuật chung có thể nêu ra như sau:

* Khoảng cách trồng: tuỳ theo chủng và giống đối với chủng Antilles và những giống lai, có thể trồng ở khoảng cách khá thưa: 8x8m hoặc 10x10m.

* Vấn đề xen canh: vào những năm bắt đầu trồng bơ, khi cây bơ toả tán chưa rộng, có thể trồng xen rau đậu nhưng không nên trồng cà chua, khoai tây vì nấm Verticilium có thể lan truyền cho cây bơ.

* Biện pháp giữ ẩm: giai đoạn còn nhỏ, bộ rễ bơ ăn cạn, cho nên vấn đề tưới giữ ẩm và phủ gốc là cần thiết để bơ không bị chết do nóng khô vào mùa nắng; nhất là đối với những vườn bơ trồng bằng cây ghép. Tốt nhất nên tưới phun và không nên tưới đẫm vào gốc.

* Bón phân: Tuỳ tuổi của cây giai đoạn cây còn nhỏ có thể bón theo công thức N - P2O5 - K2O với tỷ lệ 1-1-1. Ở cây lớn nên tăng tỷ lệ K2O và N lên theo tỷ lệ 2-1-2. Trước khi trồng và trong những năm đầu, nhất thiết phải bón phân chuồng hoai 10-20 tấn/ha.

* Vấn đề tạo tán: Tiến hành từ nhỏ đối với những giống cây cao để tạo dáng cây không cao quá 6m và cành toả đều về các phía. Việc cắt xén cành khô, cành vượt cũng phải thực hiện sau mùa thu hoạch để giúp cây sinh trưởng bình thường và ngăn ngừa không cho sâu bệnh lan tràn.

* Trồng cây chắn gió: thân cành bơ rất dòn, dễ gẫy, nên vấn đề trồng cây chắn gió rất quan trọng. Thường dùng cây dương liễu: (Casuarina equisetifolia) trồng dày cách hàng bơ bìa 6m để che gió và giúp cho đất thêm nhiều chất dinh dưỡng.

A. SÂU BỆNH
1. Sâu: Trên bơ có nhiều loài sâu hại:

- Sâu cuốn lá (Gracilaria percicae Busk): bướm thường đẻ trứng trên lá mới ra, trứng nở thành sâu và lớn dần lên theo lá, nhưng thông thường nhất là sâu nhả tơ cuốn lá lại để làm tổ. Sâu dài khoảng 10mm, xanh và có những lằn ngang không rõ rệt. Trưởng thành, sâu làm nhộng trong các tổ lá, nằm yên 5-7 ngày rồi vũ hóa.

Dùng các loại thuốc trừ sâu nội hấp để phun diệt trừ. Nếu có điều kiện, trước khi phun thuốc, nên gỡ bỏ các tổ lá do sâu cuốn lại để tăng thêm hiệu lực của thuốc.

- Sâu cắn lá: có rất nhiều loài, có hai loài đã được định danh là Seirarctia echo và Feltia subterrania F. Sâu ăn trụi lá làm chết cây con và làm giảm sức tăng trưởng cây lớn. Có thể tìm thấy sâu trên lá, trên cành hoặc vỏ thân cây. Ban ngày, sâu ẩn núp dưới gốc cây, đêm đến bò ra phá hại.

- Rầy bông (Pseudococcus citri Risse): rầy thường xuất hiện vào mùa mưa, chích hút nhựa lá và đọt non, quả non làm cây giảm sức tăng trưởng.

2. Bệnh: là đối tượng bảo vệ thực vật quan trọng trên cây bơ, gồm các bệnh hại sau:

- Bệnh thối rễ: do nấm Phytophthora cinnamoni gây ra, ở những chân đất có thuỷ cấp cao, nấm xâm nhập làm hư rễ chính (rễ cọc), sau đó nấm lan tràn phá huỷ cả bộ rễ làm cây chết rụi. Cây bị bệnh có tán lá xơ xác, lá đổi sang mầu xanh nhạt rồi rụng. Cành chết dần từ ngọn xuống thân chính.

Biện pháp phòng trừ:

- Chọn giống ghép và gốc ghép chống chịu bệnh. Không dùng hạt giống bị nhiễm bệnh và vườn ươm giống phải tuân thủ các biện pháp phòng chống bệnh phát sinh và lan tràn.

- Trồng bơ trên các loại đất có kết cấu tơi xốp, tầng đất canh tác đủ sâu, rút nước nhanh khi mưa.
- Tuyệt đối không dùng nước từ những vườn bơ bị bệnh để tưới.
- Phải tẩy uế nông cụ kỹ càng.
- Phát hiện kịp thời những vết thối trên thân, cạo sạch và quét sulfate đồng - vôi đặc. Khi cây chết vì bệnh, nên đào và huỷ bỏ để bệnh không lan tràn.

- Bệnh đốm lá (Cerocospora purpurea): bệnh hại lá và trái, nấm bệnh xuất hiện rải rác trên lá có hình dạng và kích thước gần giống nhau, hình có góc cạnh hoặc hơi tròn, mầu nâu. Những đốm này cũng có thể liên kết lại với nhau thành những mảng. Trên trái bệnh tạo nên những mụt lồi cỡ 5mm, có mầu nâu nhạt đến nâu đậm. Trái bị bệnh mất giá trị. Bệnh tồn tại trên lá già để phát tán khi có điều kiện thích hợp.

- Bệnh khô cành (Colletotrichum cloeosporiodes): nấm xâm nhập vào trên cành thường làm cành khô chết. Trên trái đã già, gần chín, nấm thường xâm nhập vào những chỗ do trái cọ sát hoặc bị thương tích hoặc do công trùng chích hút, ăn vỏ quả, làm cho trái bị nhũn (thường là ở phần cuối trái).

- Bệnh héo rũ: (Verticillium albo - atrum): cây bị nhiễm nấm thường đột nhiên bị héo lá trên một phần cây hoặc khắp cây. Lá bị chết rất nhanh, đổi thành vàng nhưng lá khó rụng. Nếu lột vỏ của cành hoặc rễ cây đã chết sẽ thấy những đường sọc mầu nâu ở phần tiếp giáp vỏ và gỗ. Sau thời gian vài tháng, mầm non phát sinh trở lại trên những nhánh chưa chết và trong vòng một hoặc hai năm, cây sẽ sống trở lại bình thường và không còn triệu chứng gì cả. Nấm tồn tại trong đất và gây bệnh cho nhiều loại thực vật ở bất cứ tuổi nào. Cây bệnh có thể chết luôn hoặc sống trở lại, đối với những cây bị bệnh một phần thì phần bệnh không thể cho trái trong vòng một hoặc hai năm. Thường áp dụng các biện pháp phòng trừ như sau:

- Dùng thuốc hóa học.
- Cắt xén kỹ khi cây vừa có triệu chứng bệnh, sau khi cây bị bệnh phục hồi, cắt bỏ những nhánh nhỏ, chết.
- Không dùng cành tháp của những cây đã bị bệnh, nên dùng gốc ghép là những giống thuộc chủng Mexico.

- Không nên xen canh hoặc luân canh bơ với các cây họ cà,...
- Không trồng cây trên đất kém thông thoáng, ẩm thấp và úng thuỷ.

B. THU HOẠCH VÀ SỬ DỤNG

Cây ươm hạt bắt đầu có trái sau khi trồng được 5 hoặc 7 năm. Cây tháp bắt đầu cho trái bói sau khi trồng 1 đến 2 năm, nhưng không nên duy trì để thu hoạch quả những năm đầu (3 năm trở lại); đến năm thứ 4 chỉ để một số trái tương xứng với hình vóc của cây; và năm thứ 5 khi tiềm lực cây đủ cho năng suất thì không tỉa bỏ trái nữa mà chỉ áp dụng cho những giống có khuynh hướng ra trái quá sức như Booth 8 chẳng hạn.

Sau khi cây trổ hoa được từ 6 -12 tháng thì trái chín, thời gian này tuỳ theo giống. Năng suất cũng biến thiên rất nhiều theo giống, nhưng năng suất bình quân thường 8-20 tấn/ha. Việc tiến hành thu hoạch, thời điểm hái trái sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến phẩm chất cũng như điều kiện bảo quản, vận chuyển. Thông thường dựa vào màu sắc của da, nhưng ở Califorlia, người ta giám định hàm lượng dầu trong cơm.

Trái bơ có thể bảo quản lạnh hoặc ở nhiệt độ thường. Thông thường các giống bơ có thể bảo quản lạnh ở nhiệt độ 7 độ C, nhưng những giống thuộc chủng Antilles phải được bảo quản ở nhiệt độ cao hơn 12 độ C.

Trái bơ được sử dụng bằng nhiều cách, cách giản dị nhất là ăn với đường, sữa hoặc muối tiêu. Trái bơ còn được dùng như món rau salade hoặc trộn với rau diếp, đậu, cà chua, tương ớt... Trái bơ còn được cắt ra trộn vào canh để ăn khi còn nóng rất ngon. Trái bơ không thể để lâu hoặc đóng hộp được, tuy nhiên người ta còn dùng trái bơ để làm kem.

Trong kỹ nghệ, dầu trái bơ được dùng làm xà phòng hảo hạng và các loại mỹ phẩm cao cấp.
LIÊN HIỆP KHOA HỌC - SẢN XUẤT ĐÀ LẠT
Nguồn: Thông tin khoa học, công nghệ Lâm Đồng, số 3.1993

Trúng đậm vụ sầu riêng

Hiện nay, tại tỉnh Tiền Giang, sầu riêng đang vào vụ thu hoạch và có giá cao nên nhà vườn hết sức phấn khởi. Các giống sầu riêng chất lượng cao: Ri6, Monthong... đang được thương lái thu mua 30.000 đ/kg trở lên tùy thời điểm, cao hơn cùng kỳ năm trước trên 20%.
Theo ông Đặng Văn Trương, một nông dân giỏi chuyên canh sầu riêng tại xã Long Tiên, Cai Lậy, với giá trên, mỗi ha sầu riêng cho nguồn thu kỷ lục: 400 – 500 triệu đồng/ha. Tỉnh Tiền Giang hiện có trên 5.000 ha chuyên canh sầu riêng trong đó có khoảng 3.500 ha đang cho trái, tập trung tại các xã nằm ven sông Tiền của huyện Cai Lậy: Long Trung, Long Tiên, Tam Bình, Ngũ Hiệp, Hội Xuân... Đây cũng là địa phương có diện tích sầu riêng trồng tập trung lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long.
Thích hợp với thổ nhưỡng vùng đất bãi bồi phù sa mầu mỡ ven sông, dễ chăm sóc và cho năng suất cao, có giá trị kinh tế lớn, cây sầu riêng được xác định là một trong 7 loại cây ăn trái chủ lực của tỉnh Tiền Giang. Sầu riêng trồng tại đây chỉ sau 4 năm tuổi đã cho thu hoạch và 5 – 6 năm năng suất ổn định ở mức 30 – 40 tấn/ha.
Để giúp nhà vườn phát huy lợi thế cây sầu riêng tăng thu nhập, ổn định cuộc sống đồng thời tiến đến làm giàu, tỉnh Tiền Giang qui hoạch các vùng trồng tập trung theo ngưỡng hàng hóa chất lượng cao, chuyển giao kỹ thuật thâm canh tiên tiến, khuyến cáo tuyển chọn giống tốt có chất lượng cao và phù hợp với nhu cầu thị trường. Với giá sầu riêng tăng cao ngay từ đầu vụ, năm 2011 hứa hẹn những nhà vườn chuyên canh sầu riêng sẽ lên hương.

Wednesday, March 9, 2011

Trồng dứa cảnh

Nhiều địa phương của vùng ngập mặn huyện Tân Phước (Tiền Giang) đang triển khai mô hình trồng dứa phụng, một loại cây cảnh rất được thị trường ưa chuộng. Hiệu quả kinh tế từ loại cây này đã mở ra một hướng thoát nghèo mới cho người nông dân.
Dứa phụng (hay còn gọi là phụng cảnh) có hình như chim phượng hoàng, phân thành nhiều tầng, nhánh đủ màu sắc, được dùng làm cây cảnh hoặc chưng trong các mâm ngũ quả.
Nở hoa trên đất phèn
Tân Phước vốn là vùng đất chiêm trũng bị nhiễm phèn nặng của Đồng Tháp Mười. Thiên nhiên khắc nghiệt đã khiến cuộc sống người dân nơi đây thêm nỗi nhọc nhằn, vất vả. Người dân phải bôn ba khắp chốn để tìm hướng đi phát triển kinh tế, nhưng cái nghèo, cái khó vẫn đeo đẳng mảnh đất chua, phèn bao đời nay. Những năm gần đây, ở Tân Phước xuất hiện nghề trồng dứa phụng, loại cây cảnh có giá trị kinh tế cao. Người đầu tiên đưa giống dứa “lạ” này về trồng là ông Hà Văn Bảy (SN 1940, ấp Mỹ Lộc, xã Thạnh Mỹ, Tân Phước). “Vùng này quanh năm ngập nước chua mặn, chỉ có một vài cây trồng có sức chống chịu là sống được. Tình cờ tôi được một người thân ở Hậu Giang cho giống dứa cảnh, có hình thù đẹp, màu sắc lạ mắt nên đưa về trồng thử. Cây phát triển tốt trong điều kiện đất phèn chua mặn”, ông Bảy cho biết. Giống dứa phụng trồng rất công phu, đòi hỏi chế độ chăm sóc tỉ mỉ, đúng kỹ thuật mới cho trái đẹp, nhiều tầng nhánh có màu sắc lạ.
Ban đầu ông Bảy chỉ có ý định trồng chơi, bởi không kiếm được đầu ra cho giống cây cảnh lạ này. Nhưng chỉ qua hai mùa vụ, thương lái từ TP. Mỹ Tho đã xuống tận vườn nhà ông để đặt hàng. “Họ cần dứa phụng với số lượng lớn và trả giá rất cao cho những cây hoa đẹp, có hình dáng độc đáo. Dứa phụng được chia thành ba loại với ba mức giá khác nhau tùy vào số lượng nhánh con ở các tầng. Dứa loại I có giá trên 150.000 đồng/trái, loại II, loại III thì thấp hơn từ 50.000 – 100.000 đồng/trái”, ông Bảy nói. Với hơn bốn công đất canh tác dứa phụng, mỗi năm ông Bảy thu về gần trăm triệu đồng.
Từ một vài hộ trồng dứa phụng, đến nay toàn xã Thạnh Mỹ có gần sáu mươi hộ tham gia, trong đó tập trung chủ yếu ở ấp Mỹ Lộc. Dẫn chúng tôi đến thăm vườn dứa phụng của anh Nguyễn Hữu Soi (ấp Mỹ Lộc), một cán bộ nông nghiệp xã cho biết, trước đây vốn là vùng đất hoang hóa, nhiễm phèn nặng, bị bỏ hoang lâu ngày. Năm 2004, anh Soi cùng gia đình đến đây xin khai hoang và trồng dứa phụng. Qua gần sáu năm vật lộn, cải tạo đất, gia đình anh đã gây dựng nên một cơ ngơi khá giả giữa vùng sình lầy, ngập mặn. Anh Soi tâm sự: “Gia đình tôi có gần hai công đất trồng phụng cảnh. Mỗi năm trừ chi phí đầu tư chăm sóc, phân bón, tôi cũng thu về hơn 40 triệu đồng/năm. Sắp tới tôi dự định sẽ mở rộng diện tích canh tác và học hỏi thêm các khâu kỹ thuật lai, ghép tạo ra các loại dứa phụng có hình dáng độc. Phần diện tích trồng dứa thường sẽ dần được thu hẹp”.
Thấy được hiệu quả kinh tế của phụng cảnh, người dân bắt đầu chuyển đổi sang trồng phụng cảnh. Hiện nhiều diện tích ngập mặn, nhiễm phèn ở Thạnh Mỹ và các xã lân cận đang được cải tạo thành những vườn phụng cảnh đầy màu sắc.
Thương hiệu dứa phụng Tân Phước
Theo phòng NN & PTNN huyện Tân Phước, trong dịp tết Tân Mão vừa qua, cả huyện có hơn 1.200 chậu dứa phụng đạt chất lượng cao được thương lái đến đặt hàng, thu mua. Hiện phòng NN huyện đang phối hợp với Sở KHCN nghiên cứu, nhân rộng giống dứa phụng. Ngoài hỗ trợ về mặt kỹ thuật và con giống, phòng NN còn cung cấp phân bón và tập huấn nông dân các biện pháp chăm sóc, tạo nhánh, tạo cành…
Ông Nguyễn Văn Thọ, Phó Chủ tịch UBND xã Thạnh Mỹ cho biết: “Dứa phụng là loại cây trồng mới, lạ nhưng cho hiệu quả kinh tế cao và đang trở thành cây trồng chủ lực của xã. Phụng cảnh đã giúp nhiều hộ dân thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên mảnh đất quê hương. Chúng tôi đang có dự định xây dựng một vùng chuyên canh về phụng cảnh”. Hiện nay có nhiều doanh nghiệp từ TP.HCM, Bà Rịa – Vũng Tàu… xuống liên hệ với địa phương để thành lập các vườn trồng phụng cảnh chất lượng cao. Nhưng đây là một loại giống hiếm, có nguồn gốc ngoại nhập nên kỹ thuật trồng và chăm sóc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm dân gian. Xã đang phối hợp với phòng nông nghiệp huyện nghiên cứu lai tạo và chuyển giao kỹ thuật cho nông dân, ông Thọ nói thêm.
Trồng phụng cảnh đã mở ra một hướng phát triển mới cho người dân ở vùng phèn, mặn Tân Phước. Nhưng để cây dứa “độc” này có chỗ đứng trên thị trường, cần có một thương hiệu. Người dân và chính quyền Tân Phước đang nỗ lực để xây dựng thương hiệu cho loại dứa lạ này, nó sẽ là một cú hích về phát triển kinh tế cho toàn huyện.

Friday, March 4, 2011

Trồng su su, lãi ròng 300 triệu/ha/vụ

Thu nhập nói trên hiện không dừng lại trong phạm vi một mô hình trình diễn mà đã trở thành phổ biến tại hàng trăm hộ gia đình thuộc xã Quỳnh Liên, Quỳnh Lưu (Nghệ An). Từ hiệu quả thu được của 79 ha trong năm 2010, năm nay diện tích su su tại xã Quỳnh Liên đã tăng lên trên 100 ha. Năm nay, toàn xã ước tính có thể có tổng thu nhập trên dưới 30 tỷ đồng từ trồng su su.
Chúng tôi đến xã Quỳnh Liên và rất ngạc nhiên khi thấy những dàn su su xanh biếc nối tiếp từ nhà này sang nhà khác. Dọc trục đường liên xã, xe tải mang biển số 29, 30, 31 và 37 đang chờ sẵn để "ăn" hàng. Ông Hồ Đức Nghĩa, Chủ tịch UBND xã Quỳnh Liên phấn khởi cho biết: Toàn xã hiện có 702 ha đất các loại, trong số đó chỉ có gần 300 ha đất nông nghiệp. Trước đây đất nông nghiệp chủ yếu trồng lạc và khoai lang. Do đất cát pha ven biển bạc màu nên năng suất lạc chỉ dừng lại ở mức 70 đến 90 kg/sào, năng suất khoai lang cũng thấp.
Từ năm 2003 trở về trước, bà con đã buộc phải chuyển một số diện tích sang trồng đậu leo, dưa chuột, cà rốt, cà chua… nhưng năng suất và hiệu quả vẫn thấp. Vụ đông xuân 2003, trong xã có 4 - 5 hộ tự phát đưa giống su su từ ngoài Bắc về làm thử. Ai ngờ cho thu nhập cao gấp 4 - 5 lần so với các loại cây hoa màu trước đó. Thấy vậy, bà con bắt đầu làm theo khiến diện tích su su được nhân rộng ra toàn xã. Thế nhưng, sản phẩm của bà con làm ra đã không có đầu ra…
Điều may mắn là năm 2009, được dự án CRS tài trợ, cán bộ xã Quỳnh Liên cử đoàn công tác ra Hà Nội để tìm kiếm thị trường. Nhờ đó, sản phẩm su su Quỳnh Liên đã tiếp cận và được 4 chợ đầu mối (Dịch Vọng, Long Biên, Thường Tín và Đền Lừ) đón nhận với tư cách là một loại rau sạch. Từ đó tạo đà cho dân Quỳnh Liên mở rộng diện tích biến cây su su trở thành một loại cây hàng hóa của địa phương có thị trường và thu nhập ổn định.
Anh Lê Văn Đồng, Trưởng ban Nông nghiệp xã Quỳnh Liên, một trong những đầu mối thu mua sản phẩm su su tại địa phương cho biết: Trước năm 2009, toàn xã chỉ có 4 đầu mối chuyên thu gom, tiêu thụ quả su su cho dân. Năm 2010 đến nay, toàn xã đã có 18 đầu mối thu gom sản phẩm su su đưa ra Hà Nội. Điều làm cho người tiêu dùng yên tâm làn sản phẩm su su Quỳnh Liên không hề sử dụng bất cứ một loại thuốc BVTV, thuốc kích thích tăng trưởng nào, luộc chín trong ruột vẫn còn xanh nên được người tiêu dùng Hà Nội đánh giá cao. Năm 2010, bình quân mỗi ngày các đầu mối thu gom được 60 tấn quả. Giá thời điểm cao nhất 5.000 đồng/kg. Lúc thấp nhất vẫn đạt 800 đồng/kg. Năm nay, do trời rét nên chỉ thu mua được bình quân 50 tấn quả/ngày. Trước Tết Nguyên đán Tân Mão cũng đạt mức 5 - 6 nghìn đồng/kg. Giá su su chỉ giảm xuống trên dưới 1.000 đồng/kg và dịp Tết do không có ai thu gom và vận chuyển ra Hà Nội được nên chỉ tiêu thụ trong và ngoài huyện. Hiện đang giữ mức bình quân 2.000 đồng/kg… 

Tuesday, February 22, 2011

Nuôi rắn ráo trâu quy mô trang trại

Nghề nuôi rắn ráo trâu (còn gọi hổ vện, hổ trâu, hổ hèo...) đang rất hấp dẫn với nhiều người nuôi loại rắn này. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu về con giống cho người nuôi, rắn thương phẩm cho các nhà hàng và cả thị trường xuất khẩu thì nguồn cung vẫn còn hạn chế. Nắm bắt tình hình trên, từ đầu năm 2010, tại khu vực ấp Sa Tô, xã Khánh Bình, huyện An Phú (An Giang), một trang trại rắn ráo trâu được dựng lên nhằm đáp ứng nhu cầu đó.
Bằng sự nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin về thị trường tiêu thụ cùng với sự đam mê con rắn ráo trâu, anh Nguyễn Hoàng Quốc Việt đã mạnh dạn đầu tư hàng trăm triệu đồng để xây dựng nên một trang trại rắn ráo trâu thật bài bản. Anh Việt cho biết, mặc dù trại rắn của anh mới thành lập hơn một năm mà đã có hàng trăm bà con từ các tỉnh ĐBSCL, TP.HCM và cả Hà Nội đến tham quan, mua con giống và các nhà hàng cũng tìm đến đặt mua rắn thương phẩm khá lớn.
Trại rắn của anh nằm bên một dòng sông sát biên giới, bên kia là huyện Cỏ Thum, tỉnh Kandal - Campuchia. Nhờ đất vườn rộng rãi nên việc chăn nuôi đối với anh rất thuận lợi. Công việc tiến hành khá suôn sẻ nhờ anh có một khoảng thời gian nuôi rắn ri voi. Theo anh Việt so sánh, nuôi rắn ráo trâu sẽ dễ dàng hơn trong việc kiểm soát số lượng rắn bố mẹ và tỉ lệ nở, sinh trưởng của đàn rắn con. Còn rắn ri voi thì rất khó biết được tỉ lệ hao hụt vì phải nuôi trong môi trường nước. Vả lại rắn ri voi rất hung dữ và kén mồi hơn. Do đó mà kể từ đầu năm 2010, anh Việt đã bắt đầu chuyển hẳn sang nuôi rắn ráo trâu.
Ban đầu anh đi thu gom rắn của bà con ở địa phương nuôi nhưng không hiệu quả, được hơn chục cặp bố mẹ. Để chuẩn bị cho kế hoạch lâu dài, ngay từ khi chuẩn bị thành lập trang trại, anh Việt đã chủ động tìm đến Chi cục Kiểm lâm An Giang để xin cấp giấy chứng nhận đăng ký “Trại gây nuôi sinh sản – nuôi sinh trưởng động vật hoang dã” và đã được chấp thuận ngay sau đó. Đây có lẽ là điều động viên khích lệ những người có ham thích với nghề nuôi động vật hoang dã như anh. Bên cạnh đó, vừa tạo điều kiện dễ dàng cho người nuôi trong việc mua bán, vận chuyển động vật hoang dã, vừa có sự giám sát chặt chẽ từ các cơ quan chức năng.
Ngay sau khi được cấp giấy chứng nhận, anh Việt không ngừng tự mày mò qua sách báo và các tài liệu hướng dẫn về kỹ thuật chăn nuôi và xây dựng chuồng trại đúng quy cách. Hiện tại nhiều nhà hàng, quán ăn đã đến trang trại của anh thu mua rắn với giá khá cao, từ 600.000đ – 700.000 đ/kg nhưng không đủ để bán. Do đó, một vài bà con nông dân ở hai huyện An Phú và Tân Châu (An Giang) đã nuôi ráo trâu cho sinh sản và bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế đáng khích lệ.
Theo kinh nghiệm của anh Việt, loài rắn ráo trâu dễ nuôi, mau lớn, ít bệnh tật, đầu ra lại ổn định. Nếu chăm sóc đúng theo hướng dẫn thì chỉ sau 6 tháng là rắn trưởng thành và khoảng 1 năm tuổi, rắn sẽ tự bắt cặp (phối giống) và bắt đầu đẻ, mỗi lứa khoảng 10 trứng, nhiều nhất là 20 trứng. Sau khi rắn đẻ xong, người nuôi cho tất cả trứng vào riêng một cái thùng hoặc khạp có đổ cát hoặc giẻ khô để ấp, mặt đậy kín giữ ấm. Sau hai tháng, trứng sẽ nở đạt tỉ lệ từ 85 – 95%. Qua theo dõi của anh Việt, rắn ráo trâu mỗi năm đẻ hai lần, thường bắt cặp vào tháng chạp và đẻ nhiều vào tháng 2, 3 hoặc giữa năm.
Chuồng nuôi rắn có nhiều dạng, chuồng xi măng hoặc chuồng lưới. Trại rắn của anh Việt chia làm 6 khu riêng biệt, tất cả đều được xây bằng gạch khá kiên cố và các vách xung quanh được bao lưới để có tạo môi trường thông thoáng cho rắn sinh hoạt. Ngoài ra để giữ cho chuồng trại sạch sẽ và tiện chi việc phân loại cỡ rắn, anh Việt đều có khu dành riêng cho rắn đẻ, rắn lứa, rắn con và rắn thương phẩm... Đặc biệt, mỗi chuồng đều có lót vỉ tre hoặc lưới sao cho mát, sạch và êm để rắn nghỉ ngơi. Thức ăn chính của rắn là động vật như ếch, nhái, chuột hoặc các phế phẩm từ gia súc, gia cầm (đặc biệt là đầu gà).
Theo kinh nghiệm của nhiều người, rắn đực và cái nên nhốt chung một chuồng. Nhưng sau một thời gian cần phải tách ra theo kích cỡ lớn nhỏ riêng để tránh việc giành ăn có thể gây ra thương tích lẫn nhau. Nhất là trong thời kỳ giao phối, rắn đực rất hung dữ khi kiếm bạn tình. Do đó nên bố trí mỗi chuồng theo tỉ lệ 1đực/2 cái. Riêng rắn con mới nở phải được nhốt riêng. Rắn giống hiện nay có giá từ 200.000 – 400.000đ/con, tùy theo ngày tuổi. Tính ra, nuôi rắn ráo trâu lợi nhuận cao hơn nuôi rắn ri voi và các loài động vật hoang dã khác, nhất là nuôi rắn cho sinh sản, lợi nhuận sẽ còn cao hơn nhiều.
Chỉ mới hơn một năm phát triển mà trang trại của anh Việt đã gầy dựng trên 200 rắn bố mẹ, 300 rắn lứa và nhiều rắn con mới nở. Đó là chưa kể số rắn thương phẩm và rắn giống đã bán ra trên 600 con. Anh cho biết, hiện nay con giống đang khan hiếm, trang trại duy nhất của anh ở An Giang không đủ cung cấp cho các hộ nuôi và các nhà hàng. Đây là loại động vật hoang dã nên việc nuôi và thuần dưỡng ráo trâu, ngoài lợi nhuận ra còn góp phần bảo tồn nguồn gen động vật quý hiếm. Mặc dù được cấp giấy phép nhưng ước mơ của anh là cần có sự hỗ trợ nhiều hơn nữa của chính quyền và các ngành chức năng về hành lang pháp lý để anh yên tâm mở rộng chuồng trại.